* * * – Andrei Voznesensky

March 5, 2010

Những tháng ngày xanh em mang đặt cả,
Tôi đâu tiếc gì trọn gói tài năng.
Lệnh trọng tài –  ta bước xa đôi ngả.
Ôi lạy giời – em đấu súng thật hăng!

Tôi lảo đảo trúng cơn hờn đích đáng,
Như nghệ sĩ, cố vớt vát mấy lời,
Với phụ nữ tôi đây không đấu súng,
Nhưng đấu vì phụ nữ – chuyện khác rồi.

Đấu súng vì một nàng hồi tháng bảy
Chạy đến bên, tôi đã nguyện yêu thương,
Mà giờ đây đạn bay như chim sẻ,
Tình trong tôi bị giết bởi tay nàng.
Tykva dịch

 * * *

Андрей Вознесенский

Ты поставила лучшие годы,
я — талант.
Нас с тобой секунданты угодливо
Развели. Ты — лихой дуэлянт!

Получив твою меткую ярость,
пошатнусь и скажу, как актер,
что я с бабами не стреляюсь,
из-за бабы — другой разговор.

Из-за той, что вбегала в июле,
что возлюбленной называл,
что сейчас соловьиною пулей
убиваешь во мне наповал!

1972


Cháy trường kiến trúc – A.Voznesensky

November 21, 2009

Thiên hạ đồn bác nhà thơ A.Voznesensky tốt nghiệp trường ĐH Kiến trúc. May là bác ấy không hành nghề. Lý do tại sao thì mình cóc biết, nhưng mình cảm thấy thế qua bài thơ này:

ПОЖАР В АРХИТЕКТУРНОМ ИНСТИТУТЕ

Пожар в Архитектурном!
По залам, чертежам,
амнистией по тюрьмам –
пожар, пожар!

По сонному фасаду
бесстыже, озорно,
гориллой краснозадой
взвивается окно!

А мы уже дипломники,
нам защищать пора.
Трещат в шкафу под пломбами
мои выговора!

Ватман – как подраненный,
красный листопад.
Горят мои подрамники,
города горят.

Бутылью керосиновой
взвилось пять лет и зим…
Кариночка Красильникова,
ой! горим!

Прощай, архитектура!
Пылайте широко,
коровники в амурах,
райклубы в рококо!

О юность, феникс, дурочка,
весь в пламени диплом!
Ты машешь красной юбочкой
и дразнишь язычком.

Прощай, пора окраин!
Жизнь – смена пепелищ.
Мы все перегораем.
Живешь – горишь.

А завтра, в палец чиркнувши,
вонзится злей пчелы
иголочка от циркуля
из горсточки золы…

…Все выгорело начисто.
Милиции полно.
Все – кончено!
Все – начато!
Айда в кино!

1957

Андрей Вознесенский. Не отрекусь.
Избранная лирика.
Минск, “БелАДИ”, 1996.

Cháy trường kiến trúc

A.Voznesensky

Trường kiến trúc cháy kìa!
Ân xá cho tất thảy,
Các giảng đường, sơ đồ,
Ôi, đám cháy, đám cháy!

Khắp mặt tiền ngái ngủ
Cửa sổ cháy thật to,
Phơi mông đỏ như khỉ,
Chẳng biết ngượng bao giờ!

Chúng tôi làm luận án,
Giờ bảo vệ gần kề.
Bao nhiêu lệnh cảnh cáo
Rên xiết trong tủ kia!

Giấy vẽ rơi lả tả,
Rực hồng như lá thu.
Bao khung tranh bén lửa,
Phố xá cũng ra tro.

Chỉ một chai dầu hoả
Đi tong năm năm trời…
Karina thân mến,
Bạn đang cháy cùng tôi!

Vĩnh biệt, nghề kiến trúc!
Cháy thật rộng thật to,
Những chuồng bò chạm khắc,
Hộp đêm roccoco!

Những rồng phượng vẽ vời
Đi tong trong đống lửa!
Con ngốc nào váy đỏ,
Thè lưỡi trêu nữa kìa.

Vĩnh biệt nhé, ngoại ô!
Đời – tro bụi luân hồi.
Kiểu gì ta chẳng cháy.
Sống – là cháy mà thôi.

Ngày mai dọn đống tro,
Kim compa sót lại,
Đâm thẳng vào ngón tay,
Như  ong châm đau nhói…

Tất cả cháy sạch rồi,
Trường còn toàn cảnh sát.
Tất cả – cáo chung!
Tất cả – bắt đầu!
Thôi ta đi ra rạp!

Quỳnh Hương dịch.

Прощай, архитектура!
Пылайте широко,
коровники в амурах,
райклубы в рококо!

Đoạn này còn có một dị bản: Сортиры в рококо! Không phải hộp đêm kiểu roccoco, mà là chuống xí… Bác Voznesensky yêu kiến trúc ra phết.

Hôm nay chăm chỉ, mình sửa lại bài dịch, và tìm thấy vài dòng thông tin về bạn Karina yêu quí của anh Voz. Chị Karina Krasilnikova là kiến trúc sư, Hội viên hội Kiến trúc sư Nga, Phó tiến sĩ ngành kiến trúc.


А.Вознесенский – НИКОГДА

November 19, 2009

Hôm nay là một ngày rất rất rất tồi tệ. Rét quá, và mình bị cảm lạnh, và chẳng có việc gì làm. Bài thơ Bao giờ chạch đẻ ngọn đa made in Russia này các mem NNN đang đua nhau dịch. Mình nhàn cư vi bất thiện, cũng té nước theo mưa một nhát, đỡ buồn…

Я тебя разлюблю и забуду,
когда в пятницу будет среда,
когда вырастут розы повсюду,
голубые, как яйца дрозда,
когда мышь прокричит “кукареку”,
когда дом постоит на трубе,
когда съест колбаса человека
и когда я женюсь на тебе.
*****

 А. Voznesensky

 Chẳng bao giờ

 Ta thôi yêu, lãng quên mình,
Khi nào thứ sáu bỗng thành thứ tư,
Khi hoa hồng nở ỡm ờ
Khác chi trứng sáo bụi bờ xanh xanh
Chuột nhắt gáy gọi bình minh,
Nhà trên ống khói chình ình mọc ra,
Khúc giò nuốt chửng bợm già,
Và ta đây sắm xe hoa đón mình.

 Cô nào muốn lên xe hoa nữa nào?!!!


СИРЕНЬ – Андрей Вознесенский

November 16, 2009

Сирень похожа на Париж,
горящий осами окошек.
Ты кисть особняков продрогших
серебряную шевелишь.

Гудя нависшими бровями,
страшен от счастья и тоски,
Париж,
как пчелы,
собираю
в мои подглазные мешки.

 TỬ ĐINH HƯƠNG

Andrei Voznesensky

 Cành tử đinh hương nở giống Paris,
Như tổ ong xôn xao từng ô cửa.
Tay em đưa rung động cành bạc phủ
Như phố mang chùm nhà chĩu chịt rung.

 Cùng đôi mày rủ xuôi cất tiếng gầm,
Buồn lẫn vui khiến tôi thành đáng sợ,
Tôi thu Paris như đàn ong nhỏ
Giấu cả vào bọng dưới mắt mình luôn.


ХУДОЖНИК И МОДЕЛЬ – Андрей Вознесенский

November 2, 2009

Ты кричишь, что я твой изувер,
и, от ненависти хорошея,
изгибаешь, как дерзкая зверь,
голубой позвоночник и шею.

Недостойную фразу твою
не стерплю, побледнею от вздору.
Но тебя я боготворю.
И тебе стать другой не позволю.

Эй, послушай! Покуда я жив,
жив покуда,
будет люд тебе в храмах служить,
на тебя молясь, на паскуду.

1973

Hoạ sĩ và người mẫu

Andrei Voznesensky

Em thét lên, rằng tôi kẻ bạo tàn,
Vì hờn căm em xinh hơn trông thấy.
Láo xược như thú hoang thường làm vậy,
Em vận cong lưng với cổ xanh lơ.

Em phát ngôn dớ dẩn thế thì thôi
Khó chịu ghê, cả người tôi xanh tái.
Nhưng tôi đang biến em thành thần đấy,
Nên chẳng cho em đổi khác được đâu.

Ê, nghe này! Một khi tôi còn thở
Một khi tôi vẫn còn sống trên đời,
Dân tình sẽ còn thờ em trên điện
Khấn vái em nữa đấy, mụ dở hơi.

1973


РОМАНС – Андрей Вознесенский

October 30, 2009
РОМАНС

Андрей Вознесенский

Запомни этот миг. И молодой шиповник.
И на Твоем плече прививку от него.
Я – вечный Твой поэт и вечный Твой любовник.
И – больше ничего.

Запомни этот мир, пока Ты можешь помнить,
а через тыщу лет и более того,
Ты вскрикнешь, и в Тебя царапнется шиповник…
И – больше ничего.

Tình ca

Andrei Voznesensky

 Hãy nhớ phút giây này. Và cây tầm xuân non.
Cái nhói đau trên vai vì gai đâm nữa nhé.
Anh – thi sĩ và người tình, không gì hơn thế,
Trên thế gian này anh vĩnh viễn thuộc về em. 

Hãy nhớ thế giới này, khi em còn có thể,
Sau cả một ngàn năm, mà có khi hơn thế,
Em bật lên tiếng kêu, gai tầm xuân cào khẽ…
Và chẳng còn chuyện gì nhiều hơn thế nữa đâu.

 


Андрей Вознесенский – Không đề

October 24, 2009

Андрей Вознесенский

* * *

Поглядишь, как несметно
разрастается зло —
слава богу, мы смертны,
не увидим всего.

Поглядишь, как несмелы
табуны васильков —
слава богу, мы смертны,
не испортим всего.

Andrei Voznesensky

* * *

Hãy nhìn xem kìa, cái ác
Lộng hành ở khắp mọi nơi –
Nhờ trời, ta không bất tử
Không phải thấy tất trên đời.

Hãy nhìn xem kìa, hoa tím
Rụt rè, bẽn lẽn bao nhiêu –
Nhờ trời, ta không bất tử
Nên không phá tất mọi điều.


SAGA

March 7, 2007


Tới bình minh em hãy đánh thức anh
Rồi cứ để chân trần em tiễn anh đi nhé.
Em sẽ không bao giờ gặp lại anh lần nữa.
Em sẽ không bao giờ quên anh đâu.

Che chở em khỏi cái lạnh lúc rạng đông
Anh nhủ thầm: «Chúa lòng lành thấu tỏ!
Anh sẽ không bao giờ gặp lại em lần nữa
Anh sẽ không bao giờ quên em đâu».

Mặt nước ngã ba sông sóng lăn tăn
In bóng Bộ Hải quân và Phòng chứng khoán
Anh sẽ không bao giờ quên cảnh đó
Dù sẽ không bao giờ được thấy lại nữa đâu.

Những cây anh đào tuyệt vọng sạm nâu
Nhựa đổ dòng như lệ rơi bởi gió.
Quay đầu lại luôn luôn là điềm gở.
Anh sẽ không bao giờ gặp lại em đâu.

Cả khi ta tái sinh trong kiếp khác
Thêm một lần sống trên Trái đất này
Thì vĩnh viễn với nhau ta lạc mất.
Anh sẽ không bao giờ gặp lại em đâu.

Và những hiểu lầm từ trước tới nay
Bỗng trở nên nhỏ nhoi không đáng nói
Trước tiền định trong cuộc đời sắp tới
Giữa hai ta là khoảng trống không người.

Treo lửng lơ trên cao vời vô nghĩa
Là đôi câu ám ảnh suốt không thôi:
«Ta sẽ không bao giờ quên nhau trong đời.
Ta sẽ không bao giờ gặp lại nhau lần nữa».

САГА

Ты меня на рассвете разбудишь,
проводить необутая выйдешь.
Ты меня никогда не забудешь.
Ты меня никогда не увидишь.

Заслонивши тебя от простуды,
я подумаю: «Боже всевышний!
Я тебя никогда не забуду.
Я тебя никогда не увижу».

Эту воду в мурашках запруды,
это Адмиралтейство и Биржу
я уже никогда не забуду
и уже никогда не увижу.

Не мигают, слезятся от ветра
безнадежные карие вишни.
Возвращаться — плохая примета.
Я тебя никогда не увижу.

Даже если на землю вернёмся
мы вторично, согласно Гафизу,
мы, конечно, с тобой разминёмся.
Я тебя никогда не увижу.

И окажется так минимальным
наше непониманье с тобою
перед будущим непониманьем
двух живых с пустотой неживою.

И качнётся бессмысленной высью
пара фраз, залетевших отсюда:
«Я тебя никогда не забуду.
Я тебя никогда не увижу».


Băng giá đầu đời

March 7, 2007


Trong cabin điện thoại em gái cóng rồi
Áo khoác mỏng manh không đủ che khỏi lạnh
Khuôn mặt nhỏ đẫm đầy nước mắt
Phấn son trôi không giấu được tái xanh.

Dùng hơi thở tạm sưởi từng ngón tay
Giá như băng. Đôi hoa tai cũng thế.
Ngại ngùng trước đường về em đơn lẻ
Con phố vắng người đã phủ một lớp băng

Băng giá đầu đời lần đầu tiên em gặp
Băng giá đầu đời từ điện thoại lạnh lùng
Vết băng giá trên má em lấp lánh.
Băng giá phũ phàng từ những người dưng.

1959

ПЕРВЫЙ ЛЁД

Мёрзнет девочка в автомате,
Прячет в зябкое пальтецо
Всё в слезах и губной помаде
Перемазанное лицо.

Дышит в худенькие ладошки.
Пальцы – льдышки. В ушах – серёжки.

Ей обратно одной, одной
Вдоль по улочке ледяной.

Первый лёд. Это в первый раз.
Первый лёд телефонных фраз.

Мёрзлый след на щеках блестит –
Первый лёд от людских обид.

1959